Bài viết sẽ giúp chị em phụ nữ mắc ung thư vú hiểu hơn về thể ung thư của mình đồng thời giúp người thân của họ có thêm thông tin để trao đổi với bác sĩ trong quá trình điều trị cũng như chăm sóc cho người phụ nữ họ yêu thương.
Trong thập kỷ qua, các trao đổi, bàn luận của chúng ta về ung thư vú có nhiều thay đổi. Các bác sĩ, bệnh nhân và công chúng hiện nay sử dụng thuật ngữ “HER2” và “bộ ba âm tính” để miêu tả các loại khác nhau của ung thư vú. Khái niệm này – trong việc xác định ung thư là tương đối mới và ra đời từ những kiến thức gần đây – cho rằng ung thư vú không đơn thuần là một bệnh và chúng ta có thể tập hợp và điều trị nó theo các chỉ dấu phân tử riêng biệt. Cả HER2 dương tính và thể bộ ba âm tính (tripple negative breast cancer) được cho là “hung hãn” – tiến triển nhanh, thường được chẩn đoán ở những phụ nữ trẻ, có thể tái phát nhanh sau điều trị và thường được điều trị với phác đồ hóa chất. Nhưng thực tế hai thể này khác nhau.
Tế bào ung thư vú thường có các thụ thể đối với nội tiết tố nữ bao gồm estrogen (ER) và progesterone (PR). Ung thư vú có các thụ thể này được gọi là ung thư vú nhạy cảm với nội tiết và loại này chiếm tới 70% các ca ung thư vú. Thêm vào đó, dù trong tất cả các tế bào đều có một gen gọi là HER2, thì khoảng 15-20% các ca ung thư vú phát hiện có quá nhiều bản sao của gen HER2 và được gọi là ung thư vú HER2 dương tính hoặc ung thư vú khuyếch đại gen HER2. Xấp xỉ một nửa trong số các ca ung thư vú thể HER2 dương tính cũng mang thụ thể nội tiết.
Khi khối u được kiểm tra bởi nhà nghiên cứu bệnh học (nhà giải phẫu bệnh), khoảng 15% không có thụ thể estrogen (ER), không có progesterone (PR) cũng không có quá nhiều bản sao của HER2. Ba kết luận này đi cùng nhau được gọi là ung thư vú bộ ba âm tính. Các nghiên cứu gần đây đã gợi ý rằng trong nhóm ung thư này có ít nhất 5 loại ung thư nữa. Một vài trong số đó được gọi là ung thư vú “basal-like” – dạng cơ sở (tạm dịch) vì chúng biểu hiện những chỉ dấu riêng biệt, một vài loại có liên quan đến việc thừa kế các gen di truyền viết tắt là BRCA và số còn lại là ung thư độ thấp hơn (lower grade).
Tuy nhiên, nói tóm lại thì cả HER2 dương tính và bộ ba âm tính có nguy cơ tái phát trên cả diện rộng (cách xa tuyến vú) lẫn tại chỗ (trong khu vực tuyến vú) sau phẫu thuật ngay cả khi được chẩn đoán sớm. Vì thế, các điều trị hóa chất phụ trợ cùng điều trị hóa chất truyền tĩnh mạch từ 4-8 đợt thường được khuyến khích thậm chí với những khối u có kích thước nhỏ hơn 1cm và chưa có hạch di căn.
Trong các thể ung thư HER2 dương tính, trastuzumab (Herceptin) được áp dụng kèm hoặc sau điều trị hóa chất và thường tiếp tục điều trị trong 1 năm. Phác đồ này đã được chỉ ra rằng nó nâng cao đáng kể tỉ lệ phụ nữ sống sót sau 5 năm kể từ khi chẩn đoán mắc ung thư vú thể HER2 dương tính và là một trong những tiến bộ quan trọng trong thập kỷ trước.
Có thể điều trị trước với hóa chất và trastuzumab rồi mới phẫu thuật (được biết đến với tên phác đồ neoadjuvant –tiền phụ trợ) vì các nghiên cứu đã chỉ ra rằng có thể có lợi trong việc tính toán thời gian điều trị theo cách này.
Một số điều trị kháng HER2 đang được nghiên cứu trong các trường hợp ung thư vú giai đoạn sớm bao gồm các phác đồ uống thuốc như là lapatinib (Tykerb) cũng như các liệu pháp tiêm tĩnh mạch với các kháng thể như pertuzumab và loại kháng thể mới hơn TDM1.
Có một vài nghiên cứu tập trung vào việc phác đồ nên được kéo dài trong bao lâu. Thử nghiệm lâm sàng HERA tập trung vào các phác đồ kéo dài 2 năm cho một vài phụ nữ, có một số nghiên cứu xem xét các điều trị trong vòng 6 tháng hoặc ngắn hơn và các thử nghiệm lâm sàng đã tuyển các phụ nữ đã hoàn thành điều trị cho các phác đồ uống thuốc như là neratinib hoặc lapatinib. Chúng ta cần thời gian và chờ đợi bất kỳ kết quả nào từ các nghiên cứu này.
Đối với thể bộ ba âm tính, mặc dù điều trị hóa chất đóng vai trò trụ cột, chúng ta vẫn đang tìm kiếm các điều trị hỗ trợ mới để giảm số lượng phụ nữ bị tái phát. Các nghiên cứu đã thực hiện với nhiều tác nhân bao gồm thuốc để ngăn chặn hình thành các mạch máu (angiogenesis) như Avastin.
Có một số nghiên cứu tập trung vào các thuốc nhắm vào HER1 (còn gọi là yếu tố sinh trưởng biểu bì hay EGFR). Các thuốc này rất hiệu quả đối với một số ung thư như phổi, ung thư ruột kết, nhưng tới nay, với ung thư vú thì kết quả chưa như mong đợi. Một vài nghiên cứu xem xét các loại hóa chất khác nhau bao gồm cisplatin và carboplatin.
Cũng có nhiều tín hiệu tốt về một thế hệ thuốc mới với tên gọi chất ức chế PARP. PARP là một loại enzim (enzyme) giúp phục hồi các DNA bị hư hại trong tế bào. PARP có thể không hoạt động trong một số loại ung thư cụ thể như là các loại ung thư có liên quan đến các gen di truyền BRCA. Có nhiều loại chất ức chế PARP được phát triển và một đơn vị, Iniparib, đã được két hợp với hóa chất trong điều trị ung thư tiến triển và đã cho thấy kết quả điều trị được cải thiện. Một nghiên cứu lớn đang được lên kế hoạch để kiểm tra loại thuốc này trong sự kết hợp với hóa chất đối với ung thư vú giai đoạn sớm. Các đơn vị thuốc mới khác cũng có nhiều triển vọng.
Năm 2010, chúng ta nói về HER2 dương tính và bộ ba âm tính, nhưng trước thời điểm 2020, chúng ta có thể có một sự phân loại mới và hãy hi vọng chúng ta có nhiều hơn các điều trị hiệu quả và một cách kiên định rằng có thể có nhiều hơn các phương thuốc cứu chữa mọi loại ung thư. Cho đến khi có nhiều tiến bộ xa hơn trong điều trị cả HER2 dương tính và bộ ba âm tính, chúng ta vẫn cần tiếp tục các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và lâm sàng.
BCNV 1/2014
BCNV dịch từ báo cáo khoa học của Bác sĩ Karen Gelmon, FRCPC, Trung tâm Ung thư vú Vancouver, Canada.
Đường link gốc tại đây: http://www.cbcn.ca/index.php?pageaction=content.page&id=6132&lang=en